Tu là cội phúc, Tình
là dây oan!
Trải qua lắm cơn nguy khổ bởi mình, con người mới biết nghĩ
đến luật tự nhiên của Trời Đất mà sợ sệt vô cùng, bèn vái lạy đủ điều.
Cao thượng thay cho tín đồ nhà Phật, gác mình ra khỏi vòng
danh lợi, cái tâm đã vững chắc, con người an lạc, hiền hòa, bèn không màng đến
cát bụi trần gian. Chẳng những tự mình giữ sạch, lại còn đem đuốc lành mà rọi
sáng cho chúng sanh đặng cho họ khỏi sa vào nơi mê tối và dắt họ ra khỏi đường
lầm lạc.
Khổ là gì mà ta thường nghe người than thở rất bi ai, hết
khóc đất lại kêu trời, rồi tự trách mình lôi thôi, dở dang? Khắp năm châu bốn bể,
từ những nước văn minh, cường thịnh cho đến những xứ tồi tàn, bạc nhược, trong
gia đình từ bậc giàu sang đến hạng nghèo hèn, trong những tâm trí, hoặc cao, hoặc
thấp, thảy đều chất chứa những nỗi khổ đau! Hay là khổ là luật tạo hóa, luật
chung của đời người đâu đâu cũng là khổ, không ai tránh khỏi cái luật của Hóa
công?
Khổ là luật của Hóa công! Câu ấy nghe cũng lạ. Những người
kính oai Trời bèn nói rằng: “Lẽ nào Trời sanh ta ra lại làm cho ta khổ, thế chẳng
trái hẳn với chân lý sao?” Ngẫm lại thì thấy hóa công bày sắp hoàn mỹ vô cùng,
tốt đẹp vô cùng. Như là người thanh lịch, vật đẹp xinh, trăng trong, gió mát;
thật có lắm cái hứng thú thâm trầm. Trông ra, thấy ánh sáng buổi mai trên mặt
nước, thấy bóng dương đỏ đỏ hồng hồng tỏa khắp thành thị, thôn quê, thì ai dám
bảo thợ Trời là vụng? Xem trong vườn, thấy cành hoa mùi thơm, bóng đẹp, phất
phơ trên ngọn gió êm với con bướm bay liệng gần bên, thì ai còn cho rằng không
tốt đẹp? Nghĩ trong thân có đủ ngũ quan, tánh tình rất đoan trang, vẹn vẽ, thì
còn chi mà kêu gọi đấng Tạo vật đặng than phiền? Trời đã làm cho cả thảy đều được
thuần túy, sao lại làm cho cái khổ nó nảy ra cho loài người?
Song cuộc đời là bể khổ: khổ của đứa bé vừa lọt lòng mẹ thì
đã khóc “oa oa”; khổ của hạng thiếu niên thất vọng về công danh, duyên nợ; khổ
của bậc trưởng thành gặp những cuộc tang thương và những bước đường nguy hiểm;
khổ của kẻ tuổi già hối hận vì những điều lầm lỡ lúc xuân xanh; khổ của thiếu
phụ một mình dưới ngọn đèn tàn, nhớ bạn, khóc chồng; khổ của người chiến binh sắp
chết giữa chiến trường, xa vợ, xa nhà, chẳng được sống mà rửa hờn cho quê cha đất
tổ; khổ của nhà chí sĩ chẳng đạt được ý nguyện; khổ của kẻ lao động không tìm
được việc làm; khổ của kẻ cơ hàn áo không đủ mặc, cơm chẳng đủ ăn, lại nuôi lấy
bầy con nheo nhóc; khổ của kẻ bịnh nặng đang cầu Trời cho mau mạnh, hoặc muốn
thác cho rồi; khổ của người hiền lâm nạn, kêu oan chẳng thấu cửa công; khổ của
kẻ rủn chí, chán đời, của kẻ lao tâm nhọc trí mà chẳng được thỏa lòng.
Ngẫm đời người cũng có lắm lúc vui cười sung sướng. Nhưng cuộc
vui ngắn ngủi vô cùng. Cái vui chưa dứt, cái sầu đã lộ ra. Cái khóc là phần nhiều,
cái cười là phần ít. Khóc là bảy, cười chỉ là ba thôi. Ấy khóc là sự cố nhiên,
thật tình của ta, là luật chung của tạo hóa. Nên chi hễ gặp cảnh khổ thì con
người đành khóc mà cam chịu cho qua. Nhưng cái khổ ở đâu mà đến cho ta? Ta có
muốn khổ chăng? Có lẽ ta không muốn khổ mà ta cũng không muốn bày nó ra mà làm
gì. Là bởi hễ ta nghe nói đến khổ thì ta đã sợ lắm rồi, ta đã toan trốn tránh rồi!
Hay là cái khổ ở lòng Trời mà ra chăng? Trải qua bao đời, các nhà triết học đã
toan giải về cội nguồn sự khổ, nhưng chưa mấy ai giải rõ rệt, hoàn toàn.
Có nhiều vị bảo rằng hễ có người thì có khổ, cuộc đời có thì
tự nhiên cảnh khổ phải có, tựa hồ như hễ có cây thì có hoa và có quả vậy.
Ta không phải sanh ra trên địa cầu đặng mà chịu khổ, vì ta sợ
nó lắm, ta tránh nó mãi. Ta đành chịu khổ là khi nào ta không còn biết nơi đâu
mà tránh vậy thôi!
Vậy thì Trời bày ra cái khổ đặng hại ta chăng? Có người nói
rằng: “Kìa một bà mẹ mới sanh được một đứa con, hết sức lo lắng cho con, săn
sóc cho con, vừa hôn con vừa cười. Ấy là mẹ thương con, và bảo bọc cho con.
Trông bà mẹ ấy, rồi ta lại trông lên Trời mà nói một mình rằng: “Một bà mẹ kia
còn biết thương mến con, gìn giữ con, huống chi Trời đã sanh ra ta, mà lại
không thương ta hay sao?”. Bởi Trời là đấng cha mẹ của ta, hằng bảo bọc cho ta,
nên ta mới có cơm mà ăn, có khí mà thở, có hoa quả mà dùng, chớ có đâu đã sanh
ta rồi lại muốn đặt ra những lối chông gai mà ngăn trở, mà làm cho ta đau khổ?”
Thế thì cái khổ ở đâu mà ra vậy? Cụ Nguyễn Du có nói rằng:
“...phúc họa đạo Trời, cội nguồn cũng ở lòng người mà ra”. Ấy vậy họa phúc là kết
cuộc của ta, ta ngay thẳng thì được phúc, còn ta ác tâm thì vướng họa, nên cái
họa đến để trừng trị tội lỗi mà ta đã làm.
Theo đạo Gia Tô, khi hai đấng Cha Mẹ của cả thế gian mới
sanh xuống cõi trần, thì chưa biết khổ là gì. Cái khóc của bà E-ve chẳng phải
là cái khóc đời bây giờ, thương mà khóc, vui mà khóc, chớ nào phải khóc như ta
ngày nay. Còn ông Adam thì làm việc một cách rất dễ dàng, êm ái, chớ nào phải
làm việc cực khổ như ta bây giờ. Kế đến Thượng đế hiện xuống mà bảo rằng: “Này
con! Cha khuyên con chớ ăn trái này. Nếu con vâng theo cha thì con thương cha
và cha sẽ tin lòng con. Vả lại trái này có độc, nếu con ăn nó vào thì con sẽ chết”.
Ông và bà không tin, bà xúi ông ăn vào. Thế thì ông làm liều
rồi! Vừa đó, cái kết quả và cái trừng trị nó ứng lên mà bắt người tội nhân. Cái
khổ nó bắt từ đấy mà nảy sanh ra vậy. Ngày nay cái khổ đã thành luật rồi, ta phải
cam chịu cái luật ấy. Vậy thì ta hãy tuân theo đạo Trời, hầu mong tránh khỏi những
điều đau khổ. Ta sở dĩ mang tai họa là vì ta phạm tội không xử tròn bổn phận
làm người.
Đạo Lão và đạo Phật cũng có chỉ rõ cội nguồn của các điều
tai họa mà dạy người xa lánh. Lão Tử khuyên người không nên trái với lẽ tự
nhiên. Phải lấy nhân ái, giản dị và khiêm nhượng mà đối đãi với anh em trong xã
hội đặng không tranh giành nhau, không ghét lẫn nhau, không tranh chấp mà cũng
không tham lam. Kết quả là được sung sướng, an nhàn. Liệt Tử, một hiền nhân
trong đạo Lão nói rằng: “Ta sở dĩ không được vui, là vì ta vướng bốn cái lo, bốn
điều muốn: muốn thọ, muốn danh, muốn tước, muốn giàu. Danh lợi mà chi, phú quí
mà chi, đã sanh ra cạnh tranh, oán thù, tự cao, tự đắc, ỷ quyền, ỷ thế, rồi khi
chết cũng thành một đống xương tàn vậy thôi?”.
Phật pháp dạy rằng: Cuộc đời là sông mê bể khổ, sanh là khổ,
đau bệnh là khổ, già là khổ, chết là khổ, mà gần với người mình không ưa hay là
xa cách người yêu thương cũng là khổ. Cái nguyên thủy của sự khổ là do nơi đâu?
Chính là do bởi cái tánh khao khát và ham muốn không bao giờ cho vừa. Muốn tiêu
trừ các điều khổ ấy, tức phải giữ cho trong sạch, thanh tịnh về thân, miệng, ý.
Phải hành đạo Bát Chánh là: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp,
Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
Nếu ta dằn cái lòng tham của ta, ta sẽ được tánh tình an lạc,
ta sẽ gặp cảnh ngộ cao thượng luôn luôn. Chừng ấy, ta không còn sầu não chi nữa,
không còn thầm trách chi mữa, ta sẽ được thỏa thích một cách thâm trầm, thanh
thú. Trong đạo Phật có lý nghiệp quả, nghiệp báo, rất phù hợp với luật tự nhiên
trong vũ trụ. Mọi hành vi ở đời của ta, hoặc bằng thân, hoặc bằng miệng, hoặc bằng
ý, đều tạo ra nghiệp hết. Luật nghiệp quả, đối với sự hành động của ta rất mật
thiết, cũng như cái bóng đeo theo hình, hình ngay thì bóng thẳng, hình cong thì
bóng vạy. Như ta ở đời làm việc quấy, việc ác thì tạo ra nghiệp xấu, tức là ta
tạo nên tội lỗi, sự đau khổ về sau. Trái lại, nếu ta ăn ở thanh tịnh, thơm
lành, từ ái thì ta tạo ra nghiệp tốt, ta không phải bị cái khổ hành hạ, mà ta sẽ
được sự phúc hậu đền đáp, tiếp rước, tôn trọng ta. Cho nên kẻ hiền từ, ái mẫn
thường được bình yên, vô sự; mà người ác nghịch, xấc xược thường bị nguy hại,
khổ thân. Song trên thế giới, người lành thì ít, kẻ dữ lại nhiều, nên sự êm đềm,
thuần hậu thì ta ít thấy, mà việc khổ não, tàn khốc thì ta thấy trước mắt bên
mình trong mỗi giờ mỗi phút.
Từ khi cái khổ phát hiện ra, từ đời vô thỉ, cả trên mặt đất
đâu đâu cũng đều rền rĩ khóc than; dân tộc ta, nước nhà ta cũng thế. Đã trải
qua bao lần dâu bể rồi mà giọt nước mắt khổ hãy còn đầm đìa chan chứa, giọng
não nùng ai oán hãy còn trách Trẻ tạo chưa thôi. Ôi! cái khổ với sự sống, cái họa
với cuộc đời, thật rất thân mật nhau và liên hợp nhau lắm.
Đã cho rằng họa chẳng phải tại Trời, mà chính là bởi người đời
gây nên, chính là cái kết quả đau đớn của tội lỗi và hình phép trừng trị, để đổi
thay tâm trí người, nên tai họa là một món thuốc để trị bịnh cho tâm tánh, tinh
thần. Khi ta ở ăn không vệ sinh, đứng đi không cẩn thận, làm việc quá sức, quá
thì giờ thì ta thường vướng bịnh, hoặc ngoại cảm, hoặc nội thương. Ta liền rước
lương y mà cho thuốc ra toa đặng trị thân thể ta, hoặc trong, hoặc ngoài. Còn
khi ta lêu lỏng, chơi bời, gian tham, quỷ quyệt, đi phá hại người mà dục lợi
cho mình, thấp thì dùng lối thấp, cao thì hại thế cao, chừng ấy ông thần lương
tâm phải le lưỡi lắc đầu mà chạy mặt, không còn phương pháp đặng giảm trừ. Tức
nhiên ông lương y tai họa phải bươn bả bước vào mà đưa thuốc men cho. Nếu căn bịnh
về tánh tình ấy mà thuyên giảm thì thầy tai họa chậm rãi ra đi. Còn bịnh không
dứt, cứ nặng nề mãi thì sẽ có phương pháp trầm trọng mãi cho đến khi bịnh nhân
chết; bấy giờ ông lương y về tinh thần ấy có lẽ cũng chưa chịu thôi đâu! Vậy
thì sự khổ chẳng phải là không có ích cho ta.
Ta có nếm đến mùi khổ, ra mới biết nó bổ ích. Nó tỏa cái ánh
sáng vào lương tâm u ám của ta. Trong gia đình cho tới ngoài xã hội, đâu đâu
thiên hạ cũng đều xao xác, bồn chồn, ganh ghét nhau, hại lẫn nhau, không mấy ai
còn biết điều gì là cao thượng, liêm sỉ!
Ôi! Đời người là giả, tạm; chẳng khác luồng khói, vầng mây,
mới ngó thấy đã thoáng qua! Mà người ta cứ ham mê mãi, tranh giành mãi, lấy chức
làm vinh, lấy giàu làm sướng, lấy thọ làm mừng. Rồi họ gây ra mãi nào là tự cao
tự đại, nào là thất vọng oán đời, nào là đánh giết lung tung, cướp phá tưng bừng!
Cuộc đời là chỗ tạm; danh dự lợi quyền, giàu sang phú quý đều
là của tạm, là phù vân, chỉ để gạt gẫm, hại phá người mà thôi. Ông thần khổ làm
cho người hồi tâm mà không còn ham mê mấy điều tạm nơi sông mê bể khổ. Vì ham
mê mấy cái danh, phú, tước thọ kia, con người sa đắm với đời, cho nó là chỗ vui
sướng, nào có tưởng nó là giả đặng chán đi. Họ nào có nghĩ cho là bể khổ bến mê
cần phải thoát ra. Họ cứ chìm đắm nơi đó một cách gớm ghê, dữ dội. Rồi ra, loài
người mới định trí tỉnh hồn mà trông lên các điều cao thật sau khi bị các nạn
khổ hành hạ! Ban đầu là một cái ham mộ bất thành, một mối vọng tưởng tiêu tan,
một bàn tay buông xuôi, một tấm lòng lạnh lẽo, hững hờ, một cái gia thế suy đồi.
Như vậy, họ còn chưa hiểu thì cái khổ nó phạt thêm. Nó ẵm một đứa bé trong nôi,
nó đào một cái huyệt bên nhà. Rồi lần lần, nó giũ sổ từng người một trong gia
đình. Sau, nó lại quét sạch cả tông môn. Đến chừng ấy, con người đã vướng lắm
tai họa, hết phương thế vẫy vùng. Bể trần tràn ngập quá lắm, họ mới chịu ngước
đầu mà trông lên, mà ước nguyện những cái hứng thú thanh cao, những cái vui sướng
thâm trầm. Bấy giờ ngó trở xuống, họ sợ hoảng cả người.
Những bã danh lợi kia, ngày xưa đeo đuổi trong mấy mươi năm.
Những điều ham muốn sai mục đích kia, ngày xưa vọng tưởng mong cầu. Những cuộc
vui nhỏ nhặt kia, ngày xưa cho là phước lộc cao sang. Những của tạm gởi kia,
nay tất cả đều phơi cái mặt nạ ra thấy mà buồn cười!
Ấy vậy sự đau khổ vừa hành phạt ta, nó lại vừa làm cho sáng
rỡ tinh thần, tánh trí của ta nữa. Sự khổ nó lại làm giảm bớt cái khí tự cao tự
trọng của ta đi. Người đời hễ gặp được cảnh ngộ may mà hưng thịnh một vài phen
thì thường cho mình là tài ba lỗi lạc, nên dọc ngang, tàn bạo, chẳng biết trên
đầu có ai. Liền đó cái họa, cái khổ nó đến ngay, mà trừng trị một cách xứng
đáng. Rồi ra, cái tâm tánh kia cứng cỏi bao nhiêu lại mềm mỏng bấy nhiêu. Cái lòng
dạ kia mới hôm rồi hãy còn tự tôn tự đại, bây giờ lại quì lạy mà cầu xin. Cái
người dọc ngang kia hôm qua đâu có nhớ đến Luật tạo hóa, nay lại cho rằng khắp
cả vũ trụ đâu đâu cũng nhờ Trời Phật giữ gìn, chở che. Nên họ kêu cầu rằng: “Trời
ôi! Nỡ hại tôi sao? Xưa kia tôi dại mà lỗi lầm, bây giờ tôi đã hối hận rồi, tôi
nguyện không dám ác tâm nữa. Vì biết lưới Trời bủa khắp bốn phương, không ai
thoát khỏi...”
Như thế, sự khổ giảm được tánh tự cao, làm cho sáng rỡ tâm
trí, làm cho con người trở nên nhu nhuận, trong sạch, thanh bai.
Người đời thường có lòng ích kỷ, chỉ biết thương thân, chớ
không biết thương người. Lòng khao khát không bao giờ đầy, càng được thì lại
càng tham. Lắm lúc vì chút lòng tham mà họ đành gây nên nhiều cái thảm trạng gớm
ghê. Nhưng nào họ có suy xét, miễn thỏa dạ thì họ vui sướng lắm rồi.
Nhất là về bên dục tình thì cái lòng tham nó phát hiện ra một
cách mạnh mẽ khôn ngần: thân mạng chỉ còn xác thịt chớ không có một điểm tinh
thần, tánh tình tốt đẹp đã lu mờ đi rồi, lương tâm đã u ám, không còn biết phân
biệt điều chánh đáng với sự ác tà. Nghị lực mềm yếu không còn sức để chống
ngăn. Tất cả tâm thần đều bị cái xác thịt kia làm chủ, nó lấn lướt, phá hủy, đập
nát hết. Người như thế làm khổ nhục cho gia đình, làm tổn giọt nước mắt của cha
mẹ, vợ con, lại làm não đến lòng Trời, trái Luật tự nhiên, tạo đầy nghiệp ác.
Cái họa nó phải ra tay, lấy một cái đầu óc mới mà thay vào. Lần hồi như vậy,
ngày kia kẻ tội nhân sẽ ghê sợ mà chán đi, không còn theo đuổi phần dục về xác,
mà biết hướng theo đạo đức nhân từ. Thế thì sự đau khổ nó gội sạch đầu óc và
tánh tình ta đó.
Chẳng những nó làm sáng rỡ tâm trí kẻ tội nhân, nó lại còn sửa
đổi cho thành tâm trí mới mẽ, vẻ vang; nó trao lại những tánh chất quí hóa đã mất
tự bao giờ. Những công cuộc như thế chẳng phải trong một hai ngày mà xong. Cần
phải có sự đau khổ nó tái lại năm phen bảy bận mới mong hoàn toàn được. Cái khổ
tựa hồ như nhựa trong cây, làm cho lá tươi bông đẹp. Cái khổ nó phát hiện xuống
trong một cái tâm trí thì thấy sự ngay thật lộ ra mà theo đường đạo đức.
“Anh ơi! Trước khi khổ, anh đã làm được điều gì thích đáng
chưa? Lúc bấy giờ, trên đời, anh có biết ai khác hơn anh chăng? Anh chỉ thương
lấy anh thôi. Trước khi khổ, anh có lau chùi một giọt nước mắt nào chưa, trợ
giúp một cảnh khốn khó nào chưa? Anh có để ý rằng chung quanh anh là kẻ bần
cùng bữa no bữa đói, kẻ tật nguyền, kẻ thất nghiệp chăng? Mấy điều đó chắc hẳn
rằng anh chưa được biết, là vì anh chưa hề than khóc, chưa hề bị hành hạ vậy. Về
sau, cái khổ nó xúc động đến lòng anh mà làm cho anh lấy giọt thương tâm mà rưới
trên những cảnh ngộ nguy cấp quanh mình. Anh chỉ chia buồn không thì chưa đủ,
anh hãy làm điều phải cho người.”
Sự khổ bố ích cho ta nhiều. Nó khôi phục cho ta những tánh
tình tốt đẹp khi xưa, nó lại còn nâng cao ta lên. Nhờ nó, ta ăn ở giản dị, nhân
từ.
Mặt đất có phải là nơi vui sướng của ta chăng? Có phải là
nơi có lắm cảnh để được thỏa thích chăng? Không, toàn cả trên mặt đất đều là một
cái bể thẳm mà thôi. Tiếng khóc, tiếng than, tiếng sầu, tiếng tủi đều rên rỉ cả
ngày. Ôi! Cõi trần là cõi khổ, người trần phải chia một phần khổ với nhau. Khổ
cho đến nhìn lên bóng trăng cũng có vẻ âu sầu như chứa chan những giọt não
nùng!
Nhưng ai dám chắc rằng cái khổ lại chẳng có lắm phương pháp
rất hay, để khuyên nhủ tâm hồn? Mùi trần làm cho tinh thần phải tối tăm, u ám;
đau khổ giải thoát cho ta, làm cho ta trông thấy thêm sáng suốt, cao rộng. Tánh
tự tôn tự trọng nâng ta lên sai lẽ tự nhiên; sự đau khổ để cái ô nhục vào mà
làm cho ta trở lại địa vị cũ, chính là dứt đường lầm lạc của ta vậy. Cái tánh
thích vui quá độ nó xô ta vào những thảm trạng rất nguy, nào tiền tài, nào danh
giá đều trôi theo cuộc vui đầy tháng, trận cười thâu đêm; sự đau khổ lại làm
cho ta trong sạch như xưa, tuồng như nó lấy một cái tâm tánh mới mà thay vào
cho ta. Những tội lỗi của ta đối với xã hội và gia đình làm cho ta mất cái bổn
phận, cái phẩm cách con người; cái đau khổ liền đến đặng dạy cho ta biết lấy
nhân đạo, bác ái mà ở đời...
Nhưng ở khắp nơi đều vang tiếng than phiền rằng sao người hiền
lại vướng họa, còn kẻ dữ hay được an vui. Người hiền cũng gặp khổ, kẻ dữ cũng
mang tai, chẳng phải do bởi sự dữ, hiền hiện thời. Kẻ dữ với người hiền cũng đều
là người, hễ đồng làm người thì tức nhiên phải chịu khổ. Cái khổ có duyên cớ từ
những đời đã qua. Chính xưa kia mình đã gieo sự tội lỗi nên nay phải trả quả khổ.
Dẫu cho cái nghiệp riêng mình chẳng có, chớ cũng tránh đâu khỏi cái nghiệp
chung của chúng sanh. Những nỗi sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ là những
nỗi khổ chung; hiền, dữ cũng đều phải chịu.
Lại nữa, cái khổ trên đời có khác chi những viên đạn bay chỗ
chiến trường, trúng ai nấy chịu. Đối với loài người, cái khổ cũng thế, nó cũng
như viên đạn bắn ra, thường hại những chiến sĩ đi đầu. Những chiến sĩ đi đầu
chính là những kẻ ác. Cái họa phải trừng trị chúng nó một cách gớm ghê, nặng nề
mới được.
Sự đau khổ vướng cho những người hiền chẳng phải là vô ích
đâu. Vì ta đã biết rằng nó khuyên dạy người. Đã sanh ra ở cõi trần, mấy ai thật
hiền lành cho toàn vẹn? Đành rằng hiện thời họ hiền, song trước kia họ chưa hiền,
bấy giờ họ từng có lúc làm ác, nên nay cái quả ấy đến, nó gây vạ cho họ, chạy
đâu cho khỏi? Lại có khi sự làm của họ là hiền, mà tâm ý của họ thì chưa lành,
chưa sạch, nên họ phải chịu chút ít sự rầu buồn, áo não để đền bù. Và cho họ có
dịp mà bồi đắp tâm trí của họ, nâng cao tư tưởng của họ. Lại tưởng rằng họ cũng
nên chia sớt sự khổ với chúng sanh, với đời.
Lắm bậc từ bi đại độ, ra thân gánh lấy sự thảm khổ của chúng
sanh, vì lòng thương tràn trề! Lắm vị coi thân mình là thân của chúng sanh, mạng
mình là mạng của chúng sanh, đời mình là đời của chúng sanh, bèn ra làm việc
cho chúng sanh. Bấy giờ tai, mắt, mình mẩy của các ngài đều là của chúng sanh,
các ngài dốc lòng tế độ cho chúng sanh, nhọc nhằn vì chúng sanh, cam bề khổ cực
vì chúng sanh, không bao giờ để ý đến bản thân mình, sống vì mình.
Như vậy chẳng phải là cao thượng sao? Cái khổ của người mà
mình vui lòng nhận lấy, bèn hóa ra cái sướng, nó trở nên thâm trầm, vi diệu lắm.
Chớ cái sướng của người mà mình giành, mình giựt, hay cái khổ của mình mà đem
gán cho người, thì cái sướng đó trở nên khổ, mà cái khổ đó lại tăng thêm.
Ai ơi, hãy sống vì đời, hãy giúp chúng sanh, hãy nhận lấy
cái khổ của người.
Trong vũ trụ mà có nhiều bậc giữ cái cử chỉ ấy thì đích đáng
biết bao! Xã hội, cảnh đời sẽ không còn là chốn “sông mê bể khổ” nữa.
ĐOÀN TRUNG CÒN biên soạn, NGUYỄN MINH TIẾN hiệu đính.
Theo: www.rongmotamhon.net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét