Thứ Bảy, 18 tháng 2, 2012

Ứng dụng Năng lượng Sinh học

Tác giả Nguyễn Văn Lai
          Lịch sử tên gọi
       Cách nay đã trên 6.500 năm, trong kinh Vedas cổ xưa của Ấn Độ nói đến khí Prâna và Luân xa, người Ai Cập nói đến năng lực siêu nhiên, người cổ Trung Quốc gọi là (Qi) khí công để thu ngoại khí, đức Phật nói đến Điển Quang quanh cơ thể sống, còn Chúa Jesus nói: Ta là ánh sáng.
          Bản chất của Năng lượng Sinh học
        Con người do bẩm sinh, do tai nạn trong cuộc đời, do tu thiền hay tập luyện mà có hoặc được kích hoạt, kích thích khai mở các điểm đặt biệt trong những điều kiện nhất định có thể thu nhận năng lượng vũ trụ để chuyển thành Năng lượng Sinh học.
Năng lượng và vật chất có khả năng chuyển hóa cho nhau, vì vậy Năng lượng Sinh học mang các tính chất sau:
1- Bản chất xung: Bàn tay mạnh hơn từ 100 đến 1.000 lần nơi khác trên thân thể.
2- Bản chất sóng: Khi tạo Năng lượng Sinh học ở mức cao, năng lượng này có thể bức xạ và lan truyền dưới dạng sóng. Đặc biệt loại sóng này định hướng và mang thông tin.
3- Bản chất ánh sáng: Do mang tính chất xung (hạt) và tính chất sóng nên Năng lượng Sinh học mang bản chất ánh sáng.
4- Vật chất mới: Nghiên cứu bản chất thật sự của Năng lượng Sinh học vẫn là đề tài mới lạ, bỏ ngỏ đối với hầu hết chúng ta. Năng lượng Sinh học là loại vật chất mới có thể khác với các loại vật chất vật lý đã biết. Loại vật chất này có bản chất: siêu trạng thái (xung, sóng, ánh sáng), siêu dẫn, định hướng và mang thông tin.
5- Bản chất thông tin: Loại vật chất này mang thông tin của chủ nhân, nên người ta gọi là tâm năng. Bản chất thông tin quyết định sự thành công của phương pháp ứng dụng. Vì nếu phát những thông tin không tốt thì hiệu quả thấp và ảnh hưởng đến Nhân – Quả của chủ nhân.
Sự tồn tại Năng lượng Sinh học
Lần đầu tiên trong lịch sử khoa học thực nghiệm nhà vật lý Liên Xô, Kirlian đã tìm ra phương pháp chụp ảnh của cơ thể Năng lượng Sinh học. Mặc dù đây là một hiệu ứng vật lý nhưng đã gián tiếp mô tả phần Năng lượng Sinh học cơ thể sống dưới dạng hào quang động. Năm 1972, tại New York các nhà khoa học đã tổ chức Hội thảo khoa học về vấn đề này. Năm 1973, cũng tại New York các nhà khoa học lại hội thảo và gọi phương pháp này là hiệu ứng Kirlian. Có thể nhận định rằng hiệu ứng Kirlian là tiên đề để nghiên cứu khoa học về sự sống nói chung và khoa học về con người nói riêng.
Năng lượng là thành phần mang tính tổng thể của vật chất và đã được nhà vật lý thiên tài Einstein biểu diễn chúng qua phương trình E = mC2, trong đó E là năng lượng (Energy), m là khối lượng vật chất (mass), còn C là vận tốc ánh sáng.
Đối với sinh vật, các cơ thể sống bao gồm hai thành phần: NĂNG LƯỢNG và THÔNG TIN. Một phần năng lượng đặc gọi là cơ thể, phần còn lại mang thông tin được gọi là Năng lượng Sinh học.
Như vậy, mọi cơ thể sống đều có sẵn Năng lượng Sinh học nhưng chưa đủ mạnh để có thể tự mình dưỡng sinh, điều chỉnh bảo vệ sức khỏe cho mình và khai thác những khả năng tiềm ẩn.
Cơ chế Dưỡng sinh và điều chỉnh bảo vệ sức khỏe
Các nhà khoa học ngày nay đã đúc kết rằng nguyên nhân bệnh do tác nhân bên trong chiếm 90%, còn chừng 10% là do tác nhân bên ngoài. Rõ ràng: “Bệnh tại Tâm” như cha ông ta thường nói.
a) Tác nhân bên trong: Có thể do bị kích thích, do bị ức chế dẫn đến rối loạn các tuyến nội tiết ,v.v,…
b) Tác nhân bên ngoài: Có thể do ăn uống, thời tiết, hóa chất, tai nạn làm biến dạng cấu trúc thân thể, hoặc do vi khuẩn, vi rút xâm nhập, v,v,…
Các phương pháp chữa bệnh
Nhân loại đã biết dùng 5 phương pháp để chữa bệnh, gồm:
1- Phương pháp tự điều chỉnh: Trong mỗi con người đã có sẵn một khả năng tự điều chỉnh hết 50% bệnh tật. Như vậy, bằng cách nào đó, mỗi người rèn luyện để duy trì và nâng cao khả năng tự điều chỉnh thì thân thể sẽ khỏe mạnh.
2- Phương pháp chữa bệnh bằng hóa chất: Con người có thể nhấm nháp cành cây, ngọn cỏ, quả củ,… mà hết bệnh. Cao hơn người ta làm thành những “thang thuốc” như ngày nay. Hiện đại hơn người ta bào chế các loại tân dược để uống, tiêm chích, xông xoa, dùng hóa chất để hóa trị.
3- Phương pháp chữa bệnh bằng tác nhân vật lý: Lấy vật cứng day, ấn, kim châm, xoa bóp,… Ngày nay người ta dùng tia laser, tia cực tím, xạ trị,…
4- Phương pháp chữa bệnh bằng cách cắt bỏ, ghép cơ quan bộ phận: Nhiều bệnh làm cho một số cơ quan, bộ phận mất hết chức năng hoạt động, hoặc có nguy cơ lây lan thì tiến hành cắt bỏ, phẫu thuật, ghép cơ quan bộ phận đó để giúp người bệnh vượt qua nguy hiểm.
5- Phương pháp chữa bệnh bằng năng lượng. Có hai loại Năng lượng được dùng trong chữa trị:
5a. Năng lượng Vật lý: Con người biết dùng nhiệt năng xông, xoa; chườm bóp, cứu bắng mồi ngải,… xung điện, tia cực tím, tia laser,… để chữa bệnh.
5b. Năng lượng Sinh học: Lịch sử cũng cho thấy con người đã biết luyện yoga, khí công,… Từ lâu đời đã tồn tại các phương pháp chữa bệnh bằng Năng lượng Sinh học trong dân gian như liệu pháp sờ, vuốt, làm phép,… và ngày nay được gọi là Y NĂNG LƯỢNG. Một số nước trên thế giới đã chính thức đưa phương pháp chữa bệnh ứng dụng Năng lượng Sinh học vào dạy ở các trường đại học y, như: Marseille – Pháp, Monaco, Đông Hamton – New York,…
Trong 5 phương pháp chữa bệnh nói trên, chỉ có phương pháp tự điều chỉnh và Năng lượng Sinh học là dùng vật chất có thông tin; còn lại dùng vật chất vô sinh.

                NGUYỄN VĂN LAI  (Trung tâm CBE).

1 nhận xét:

Ho Thu, Phu Ly nói...

Ở Việt Nam, Trường Sinh học Dưỡng sinh (hay ứng dụng Trường Năng lượng Sinh học) được âm thầm phổ biến từ nhiều năm qua và đã có tác dụng, phát huy hiệu quả rất lớn trong đời sống xã hội. Môn học Trường Sinh học đã làm thay đổi cách nhìn nhận các hiện tượng kỳ lạ của con người từ chỗ sai lệch trở nên khoa học và đúng đắn hơn. Hiện nay, ở hầu khắp các tỉnh thành phố trong cả nước, nhất là Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và nhiều tỉnh khu vực miền Trung, Tây Nguyên, Đông Nam bộ đã có những trung tâm, các câu lạc bộ nghiên cứu hướng dẫn ứng dụng Trường Năng lượng Sinh học. Hoạt động này đã góp phần thúc đẩy các phong trào luyện tập dưỡng sinh phòng bệnh, tăng cường sức khỏe trong cộng đồng, phù hợp với điều kiện sinh hoạt của mọi người; không phân biệt nam nữ, già trẻ, tôn giáo, dân tộc, nghề nghiệp, trình độ học vấn và địa vị xã hội,…
Bộ môn Trường Sinh học Dưỡng sinh thực sự đã phát triển không ngừng nghỉ tại hầu hết thành thị, nông thôn và cả những vùng xa xôi hẻo lánh từ hơn chục năm qua. Đến nay, hoạt động của các Câu lạc bộ Trường Sinh học Dưỡng sinh đã đóng góp vào việc hướng dẫn luyện tập dưỡng sinh có kết quả cho rất nhiều người, với đủ mọi thành phần khác nhau: công nhân, nông dân, học sinh sinh viên, sĩ quan cao cấp quân đội, công an, giới trí thức, văn nghệ sĩ, nhà báo,… Đông đảo các giáo sư, tiến sĩ nhiều ngành khoa học; kể cả các bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ làm việc trong ngành y, cán bộ đương chức trong các cơ quan của Đảng và Nhà nước,… mỗi người bước vào tập luyện đều thấy sức khỏe được cải thiện một cách rõ rệt, đầu óc sáng suốt, lao động và học tập có hiệu quả,…